Tin FOREX | Tin tức Vàng |Tư vấn (Đầu tư) giao dịch vàng ngoại hối. Liên hệ: - 0902.297.345 (Mr.Minh) - 01656081127 (Ms.Linh)
Bấm để xem Tin Tài ChínhPhân tích cơ bản thị trường
 

Quản Trị rủi ro- Khó Hay Dễ

Cuộc khủng hoảng toàn cầu đang buộc các công ty xoay sở để có đủ tiền mặt. Và đây chính là lúc nên dành thời gian nhìn nhận tỉnh táo và thận trọng cách quản lý nguồn vốn lưu động.


(Kiến thức forex)Những năm tháng tăng trưởng bùng nổ khiến các doanh nghiệp gần như bỏ quên nguồn vốn lưu động của mình. Tiền mặt vẫn cứ quay vòng đều đặn quanh hệ thống nên các nhà quản lý thật sự không thấy cần thiết phải lo lắng làm thế nào quản lý chặt chẽ nó, dù biết điều này có thể bào mòn dần tăng trưởng lợi nhuận và doanh số.,
Vào thời điểm hiện tại, nguồn vốn và tín dụng đã và đang cạn kiệt, khách hàng cũng ra sức thắt lưng buộc bụng còn nhà cung ứng thì không chấp nhận bất kỳ hình thức chậm thanh toán nào. Một lần nữa, tiền mặt là nhất.

Do đó, đã đến lúc bạn cần nhìn nhận một cách tỉnh táo và cẩn trọng cách thức quản lý nguồn vốn lưu động của mình. Thường thì bạn sẽ bị giam rất nhiều vốn vào các khoản phải thu và hàng tồn kho nhưng bạn hoàn toàn có thể biến chúng thành tiền mặt nếu có thể điều chỉnh hợp lý chính sách và thực tiễn quản lý nguồn vốn lưu động của công ty.

Trong những phần tiếp theo, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sáu sai lầm phổ biến mà các công ty thường mắc phải trong quá trình quản lý nguồn vốn lưu động. Không mấy khó khăn để khắc phục sáu sai lầm ấy, nhưng nhờ đó mà một lượng tiền mặt đáng kể được giải phóng để tạo nên sự khác biệt giữa sự thất bại và sinh tồn trong bối cảnh khủng hoảng hiện tại.

Sai lầm thứ nhất: Quản lý bằng báo cáo thu nhập

Ân huệ đầu tiên mà bạn có thể làm cho công ty mình trong thời buổi khủng hoảng này là hãy ném bất kỳ phương pháp tính toán hiệu quả sinh lợi nào đang được sử dụng ra cửa sổ.
Giả định rằng bạn đang là một giám đốc thu mua và đóng góp vào lợi nhuận thu được sẽ quyết định thành tích của bạn. Có rất nhiều tình huống các nhà cung ứng sẽ đề nghị bạn mua nhiều hơn số lượng cần thiết để đối lấy một khoản giảm giá. Nếu bạn chấp nhận lời chào hàng đó, bạn sẽ phải giam một khoản tiền mặt vào khối lượng hàng tồn kho dôi thêm đó.

Tuy nhiên, do chi phí hàng tồn kho không thể hiện trên báo cáo thu nhập nên bạn không có lý do gì từ chối lời đề nghị của nhà cung ứng, thậm chí là khi bạn đã tính toán và nhận thấy các chi phí ấy còn cao hơn khoản lợi thu về từ mức giá chào hàng thấp nhận được. Trên thực tế, nếu bạn từ chối khoản giảm giá ấy, khoản thù lao dành cho bạn, vốn dĩ gắn với báo cáo thu nhập, sẽ bị ảnh hưởng xấu, dù khi đó quyết định của bạn có lợi cho công ty.

Dù hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hay dịch vụ, những công ty ở đó, trách nhiệm về kết quả cân đối kế toán, chứ không chỉ lợi nhuận, thuộc về phía các cấp quản lý, sẽ ít có khả năng rơi vào chiếc bẫy ấy. Các nhà quản lý khi đó sẽ có động lực để đánh giá cẩn trọng và so sánh tất cả các khoản chi phí và lợi ích để có phương án hành động tốt nhất.

(Kiến thức forex)Có thể áp dụng lập luận này với tất cả các thành phần khác của vốn lưu động. Lấy các khoản phải thu làm ví dụ. Giả định rằng bạn đang định cắt giảm thời hạn thanh toán từ 30 xuống còn 20 ngày. Sau khi đánh giá các tác động có thể có của điều này đối với khách hàng, bạn ước tính rằng sẽ phải giảm giá 1% để bù đắp cho việc thắt chặt thời hạn thanh toán và doanh số bán hàng sẽ giảm đi 2%, kết quả là lợi nhuận kinh doanh sau thuế năm nay sẽ giảm mất 1 triệu USD."

Mặc khác, nếu công ty tạo ra doanh số bán hàng mỗi ngày là 2 triệu USD thì việc thời hạn thanh toán giảm đi 10 ngày sẽ giúp công ty giải phóng được khoản tiền là 20 triệu USD. Giả định rằng chi phí cơ hội của đồng vốn là 10% (nghĩa là bạn có thể dùng tiền đó cho các khoản đầu tư khác có tỷ suất lợi nhuận là 10%), có thể bạn sẽ sẵn sàng hy sinh 2 triệu USD lợi nhuận hằng năm để có thể sở hữu số vốn này.

Khi đó, việc ra quyết định trở nên khá rõ ràng: Nếu lợi nhuận ước tính trong các năm tới của bạn có thể giảm hơn 2 triệu USD/năm thì bạn không nên giảm thời hạn thanh toán. Nhưng ngược lại, nếu bạn cho rằng khoản lợi nhuận mất đi sẽ thấp hơn lợi nhuận thu về từ 20 triệu USD vốn có thêm, dĩ nhiên giảm thời hạn thanh toán là điều bạn nên làm.

Chúng ta có thể lấy một công ty luyện kim với tỷ lệ các khoản phải thu rất cao ở thị trường Nhật làm minh họa cho phép tính này. Sau khi công ty này bị mua lại, ban giám đốc bắt đầu yêu cầu đội ngũ nhân viên kinh doanh gọi cho khách hàng một tuần trước khi đáo hạn thanh toán để nhắc họ. Có thể đoán được là những nhân viên kinh doanh ấy sợ đến dường nào. Họ phản đối: "Điều này chắc chắn sẽ khiến khách hàng chuyển sang các đối thủ cạnh tranh".

Phó Tổng giám đốc xuất hiện và xoa dịu phản đối của họ bằng một câu hỏi đơn giản: "Khách hàng của các anh sẽ cảm thấy thế nào cố tình trì hoãn giao hàng sau ngày đã thỏa thuận? Liệu họ có dám gọi cho chúng ta không?" Những nhân viên bán hàng đều đồng thanh: "Dĩ nhiên là có". Phó Tổng giám đốc tiếp lời: "Vậy tại sao những khách hàng liên tục chậm thanh toán ấy lại bất ngờ khi chúng gọi và nhắc họ về các khoản thanh toán sắp đến hạn?"

Với cách nghĩ ấy, đội ngũ bán hàng hăng hái gọi điện cho khách hàng để khuyến khích họ thanh toán đúng hạn. Kết quả là thời gian trung bình mà công ty thu hồi được các khoản phải thu giảm từ 185 ngày xuống còn 45 ngày, mang về 115 triệu USD cho tài khoản ngân hàng của công ty và giảm 8 triệu USD chi phí vốn một năm. Tuy nhiên, doanh số bán hàng đi xuống khiến cho lợi nhuận giảm mất 3 triệu USD. Rõ ràng là lợi ích của việc rút ngắn thời hạn thanh toán cao hơn khoản lỗ do yêu cầu thanh toán nhanh rất nhiều. Chúng tôi thực sự mong các công ty hãy cân nhắc hình thức đánh đổi này.

Sai lầm thứ hai: Khen thưởng lực lượng bán hàng chỉ vì tốc độ tăng trưởng đạt được,

Dù các CEO được khen thưởng do quản lý chi phí tốt - có khi chỉ nhờ các khoản tiết kiệm thể hiện qua con số trong báo cáo thu nhập - kiểm soát chi phí rất hiếm khi được áp dụng cho nhân viên ở tuyến đầu. Đặc biệt, kế hoạch phúc lợi dành cho nhân viên kinh doanh thường gắn với đơn vị doanh thu hay số tiền mà họ tạo ra. Tuy nhiên vấn đề này cũng có nhiều mặt trái.

Dễ thấy nhất, nó khuyến khích nhân viên bán hàng đăng ký doanh số bằng mọi giá. Điều này còn sinh ra quyền đặc nhượng thương mại vì nhân viên bán hàng sẽ tìm mọi cách để khiến khách hàng ra quyết định mua. Họ cho khách hàng hưởng thời gian trả chậm dài và không sẵn sàng hối thúc những khách hàng chậm thanh toán. Sợ không có hàng để bán sẽ phá hủy mối làm ăn của mình, họ cố gia tăng lượng thành phẩm tồn kho cao hơn mức cần thiết. Tỷ lệ các khoản phải thu và hàng tồn kho cao đồng nghĩa với tiền mặt bị giam trong vốn lưu động.

Đây quả là điều đáng tiếc vì một lực lượng bán hàng được khích lệ đúng cách sẽ luôn tự hỏi mình đâu là cách có được tiền mặt từ doanh số của mình. Và bạn không nhất thiết phải đi xa đến mức thay đổi cả hệ thống. Thường thì tất cả những gì bạn cần làm là giúp nhân viên nhận thức được công việc của họ là bán hàng chứ không phải đăng ký doanh số.

Đó chính xác là những gì đã diễn ra tại công ty luyện kim khi họ quyết định tiến hành các chính sách cứng rắn hơn về các khoản phải thu. Chính sách công ty yêu cầu nhân viên kinh doanh phải dành thêm một buổi để gặp gỡ khách hàng và điều này đã giúp công ty hiểu rõ hơn về tình trạng tài chính của khách hàng..

Công ty sẽ sớm phát hiện được những khách hàng nào có khả năng không thanh toán các khoản phải thu đúng hạn, thậm chí là trước khi họ thể hiện đầy đủ các dấu hiệu, và thay đổi hình thức thanh toán đối với các dạng khách hàng này sang trả ngay khi giao hàng. Nếu một trong những khách hàng ấy bị phá sản thì công ty chỉ chịu thiệt hại tối thiểu do đã tiến hành điều khoản thanh toán khi giao hàng. Kết quả là tỷ lệ các khoản phải thu quá hạn hay khó đòi giảm từ 12% xuống dưới 0,5%, mang về gần 3 triệu USD tiền mặt mỗi năm.

Hoặc, hãy xem xét một minh họa khác - một công ty sản xuất linh kiện điện tử có quy mô toàn cầu chuyên cung ứng sản phẩm cho các công ty phân phối, sản xuất điện và dịch vụ công cộng. Phần lớn doanh số của công ty đến từ các thị trường mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc. Tuy nhiên, doanh số bán hàng ở Trung Quốc thường đi kèm với nhiều khoản phải thu có thời gian đáo hạn rất dài và khả năng thanh toán vẫn còn bỏ ngỏ. Trong quá trình nỗ lực cải thiện vấn đề này, đội ngũ bán hàng của công ty tại Trung Quốc lập luận rằng tập quán kinh doanh của người Trung Quốc thường chú trọng thời hạn thanh toán "linh hoạt", nên một chính sách thanh toán cứng rắn hơn sẽ khiến thị phần công ty sụt giảm đáng kể.

Sau đó, khi doanh số ở thị trường này trở nên đáng thất vọng dù chính sách thời hạn thanh toán linh hoạt vẫn được duy trì, đội ngũ bán hàng được tập hợp lại và cùng phân tích tình trạng kinh doanh yếu kém ở thị trường Trung Quốc. Có vẻ như nguyên nhân chính là phương pháp định giá không phù hợp chứ không phải thời hạn thanh toán kéo dài. Thêm nữa, do đội ngũ bán hàng thường có cách lưu trữ hồ sơ không hợp lý nên công ty rất khó truy xuất và phát hóa đơn đúng hạn.

Một khi các quy trình đã được hoàn thiện, thời hạn thanh toán sẽ được quy theo chuẩn của ngành và chính sách sản phẩm/giá cũng được điều chỉnh cho phù hợp. Nỗ lực này mang lại kết quả hết sức to lớn, tỷ lệ các khoản phải thu tồn đọng giảm mạnh, giải phóng được hơn 10 triệu USD tiền mặt cho công ty, trong khi doanh số bán hàng đạt được trên 400 triệu USD. Trong khi đó, chất lượng các khoản phải thu được cải thiện mà không tác động xấu đến thị phần.

3. Không chịu nghe lời khuyên về những gì không nên làm:
Lời khuyên dạng "không nên" thường thiết thực hơn rất nhiều so với dạng "nên". Ví dụ, lời khuyên không nên hút thuốc mà bạn dành cho người khác sẽ có tác dụng hơn những lời khuyên chung chung liên quan đến sức khỏe. Nhà nghiên cứu di truyền học Druin Burch có lần phát biểu trên tạp chí Taking the Medicinerằng: "Tác hại của việc hút thuốc tương đương với tổng lợi ích của các biện pháp can thiệp y khoa được phát triển từ sau Thế Chiến II đến nay. Từ bỏ thói quen hút thuốc sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn việc có thể chữa khỏi bất kỳ loại ung thư nào cho con người".

Tương tự như thế, nếu như các ngân hàng ở Mỹ chịu lắng nghe các lời khuyên và không tự làm mình ngày càng gặp nhiều hiểm nguy trước các biến cố xác suất thấp, ảnh hưởng lớn thì dù cho lợi nhuận thu được có thể thấp hơn nhưng họ sẽ không rơi vào cảnh gần như phá sản như hiện nay

Các nhà tâm lý học xem xét hành động "bỏ sót một công việc" và "thực hiện sai một công việc" là hai vấn đề khác nhau. Mặc dù ảnh hưởng của nó xét trên phương diện kinh tế là như nhau - không mất đi một đôla tức là có thêm một đôla - nhưng các nhà quản lý rủi ro thì không nghĩ như thế. Họ quan tâm đến việc tạo ra lợi nhuận hơn việc tránh thua lỗ. Tuy nhiên, trên thực tế, một công ty có thể thành công khi không để thua lỗ trong khi đối thủ của nó đều phá sản và nhờ đó, công ty này có thể giành lấy thị phần từ tay đối thủ

Trong thi đấu cờ vua, các đại kiện tướng tập trung làm sao không mắc sai lầm trong khi những "tân binh" thì chỉ cố gắng làm sao chiến thắng. Cũng tương tự, các nhà quản lý rủi ro không thích dòng tiền nằm yên mà không được mang đi đầu tư, và nhờ đó có thể bảo toàn giá trị của nó. Tuy nhiên, hãy nghĩ mà xem bạn sẽ như thế nào khi danh mục đầu tư của mình vẫn được giữ nguyên vẹn suốt hai năm qua thay vì giảm mất 40% như nhiều nhà đầu tư khác. Không thua lỗ gần một nửa kế hoạch về hưu của mình chính là một thành công không cần bàn cãi.

Lời khuyên mà chỉ nói những điều tích cực là thứ gì đó bịp bợm. Khu vực sách kinh doanh trong các hiệu sách thì đầy ắp các câu chuyện thành công trong khi có quá ít đầu sách nói về thất bại. Chính thái độ xem nhẹ lời khuyên cảnh báo những tiêu cực như thế khiến các công ty xem nhiệm vụ quản trị rủi ro là một phần việc hoàn toàn tách biệt với tìm kiếm lợi nhuận và dần xa rời bản chất vốn có của nó khi chỉ được thể hiện qua việc truy hồi về quá khứ và giải thích cho những hiện tượng đã xảy ra

Thay vì làm như vậy, các công ty hãy tích hợp các hoạt động quản trị rủi ro vào trung tâm sinh lợi [1] và xem đây là một trong những hoạt động tạo ra doanh thu, nhất là khi các công ty dễ bị tác động bởi các biến cố Thiên Nga Đen

4. Cho rằng có thể giới hạn được rủi ro bằng độ lệch chuẩn;
Độ lệch chuẩn - một khái niệm được sử dụng trong tài chính như một công cụ kiểm soát rủi ro trong hoạt động đầu tư - không nên được áp dụng trong quản trị rủi ro. Độ lệch chuẩn được tính bằng căn bậc hai của các phương sai bình phương trung bình, chứ không phải phương sai trung bình. Việc sử dụng bình phương và căn bậc hai khiến phương pháp tính toán trở nên phức tạp. Nó chỉ có ý nghĩa trong môi trường mà sự ngẫu nhiên đã "được thuần hóa", trong đó hai phần ba các thay đổi đều rơi vào một số giới hạn nhất định (độ lệch chuẩn -1 và +1) và không thể có phương sai vượt quá 7 độ lệch chuẩn

Tuy nhiên, kiến thức nói trên không thể áp dụng được trong thực tế khi mà các biến động có thể vượt quá 10, 20 hay thỉnh thoảng lên đến 30 độ lệch chuẩn. Các nhà quản lý rủi ro cần tránh sử dụng những phương pháp và cách tính toán liên quan đến độ lệch chuẩn như mô hình hồi quy, R-square và beta

Người ta hiểu rất ít về độ lệch chuẩn. Ngay cả những chuyên gia phân tích định lượng cũng chưa hẳn hiểu thấu khái niệm này. Chúng tôi thực hiện nhiều thử nghiệm vào năm 2007, chúng tôi cho một nhóm các chuyên gia phân tích định lượng thông tin về dao động tuyện đối trung bình (độ lệch tuyệt đối trung bình) của một loại cổ phiếu, và khi chúng tôi yêu cầu họ thực hiện các phép tính, ngay lập tức họ nhầm lẫn nó với độ lệch chuẩn

Khi mà các chuyên gia còn nhầm lẫn thì liệu rằng những người khác có thể tính toán đúng không? Trong bất kỳ trường hợp nào, nếu như ai đó hy vọng rằng rủi ro có thể được thể hiện qua một con số đơn thuần thì quả thật đó là một thảm họa

5. Không hiểu rằng những gì tương đương về mặt toán học thì không tương đương về mặt tâm lý họ
Năm 1965, nhà vật lý học Richard Feynman đã viết trong tác phẩm The Character of Physical Lawrằng hai công thức tương đương nhau về mặt toán học có thể không tương đương nhau ở cách thể hiện của chúng trước bộ não con người. Tương tự, nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy cách thức trình bày một rủi ro sẽ ảnh hưởng đến cách hiểu của chúng ta về nó. Nếu bạn nói với các nhà đầu tư rằng trung bình phải mất 30 năm thì họ sẽ mất hết tài sản một lần thì họ sẽ sẵn sàng rót vốn hơn khi bạn nói khả năng họ thua lỗ hết tiền là 3,3% mỗi năm)

Điều này cũng lặp lại với thí nghiệm về di chuyển bằng máy bay. Chúng tôi hỏi những người tham gia vào thí nghiệm rằng: "Bạn đang đi nghỉ ở nước ngoài và cân nhắc liệu có nên thử di chuyển bằng một hãng hàng không ở nước ấy để ngắm hòn đảo đặc biệt ấy không. Các thống kê về an toàn cho thấy trong 1.000 năm thì hãng hàng không này mới để xảy ra 1 vụ tai nạn. Mà có lẽ sau này bạn không có dịp quay lại đất nước này nữa. Bạn có muốn chọn hãng hàng không địa phương đó không?". Tất cả người tham gia thí nghiệm đều trả lời "Có"
Sau đó, chúng tôi thay đổi câu thứ 2 như sau: "Các thống kê về an toàn cho thấy cứ 1.000 chuyến bay thì có 1 chuyến gặp tai nạn". Chỉ 70% số người tham dự nói rằng họ sẽ chọn chuyến bay đó. Trong cả hai trường hợp, khả năng xảy ra tai nạn đều là 1 phần 1.000; nhưng cách tính sau nghe có vẻ rủi ro hơn rất nhiều

Một viễn cảnh có vẻ càng lý tưởng thì thường tiềm ẩn rủi ro càng cao. Lúc nào bạn cũng nên tìm kiếm nhiều phương pháp thể hiện khác nhau của rủi ro để chắc chắn rằng bạn không bị hình thức hoặc toán học đánh lừa

6. Không có chỗ cho tình trạng dư thừa nếu muốn đạt được hiệu quả và tối đa hóa giá trị của cổ đông

Hầu hết các nhà quản lý không nhận thấy việc tối ưu hóa hoạt động có thể khiến công ty dễ gặp khó khăn trước những thay đổi của môi trường. Các hệ thống phân loại sinh học cũng biết cách ứng phó với thay đổi và Mẹ Thiên Nhiên là một nhà quản trị rủi ro hàng đầu. Điều đó một phần là do bà yêu thích tình trạng dư thừa. Quá trình tiến hóa đã cho loài người chúng ta thêm nhiều bộ phận dự phòng - chẳng hạn như chúng ta có 2 lá phổi và 2 quả thận - và nhờ đó mà chúng ta tồn tại.
Trong doanh nghiệp, tình trạng dư thừa rõ ràng là biểu hiện của sự không hiệu quả: các năng lực bị "treo", các thiết bị không được sử dụng, và tiền bạc nhàn rỗi. Ở khía cạnh ngược lại, chúng ta được dạy rằng tác dụng đòn bẩy (nợ) là một điều tốt đẹp. Nhưng không; nợ nần khiến cho công ty, và cả cấu trúc kinh tế, không còn vững chãi. Nếu bạn lệ thuộc quá nhiều vào vay nợ, công ty bạn có thể sụp đổ nếu như không thể đạt được doanh số dự báo, nếu như lãi suất biến động hay nếu như các rủi ro khác cùng ập đến. Nếu trong sổ cái kế toán của bạn sạch nợ, bạn sẽ đối phó với thay đổi tốt hơn

Chuyên môn hóa cao độ cũng cản trở sự tăng trưởng của công ty. Theo lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo, để tối ưu hóa hiệu quả, một nước nên chuyên sản xuất rượu vang còn nước kia thì chuyên sản xuất quần áo,... Nhưng lập luận này đã bỏ qua yếu tố: những thay đổi đột ngột. Điều gì sẽ xảy ra khi giá rượu vang giảm mạnh? Vào thập niên 1800, nhiều nền văn hóa ở Arizona và New Mexico đã biến mất vì họ lệ thuộc hoàn toàn vào một vài loại cây lương thực nên kết quả là họ không thể sống sót khi thời tiết có biến động mạnh.

Một trong những câu chuyện thần thoại về chủ nghĩa tư bản là động cơ thúc đẩy làm việc... và cả bãi công nữa. Cuộc đời của mỗi người đều phải có những lúc thăng trầm. Tuy nhiên, bản chất của tiền phúc lợi chính là một trong những yếu tố làm tăng mức độ rủi ro. Nếu bạn trao cho ai đó một khoản tiền thưởng mà không kèm theo điều khoản thu hồi, người ấy sẽ có động lực để che giấu rủi ro bằng cách tham gia vào những giao dịch có nhiều khả năng tạo ra các khoản lợi nhuận nhỏ và ít khả năng đổ vỡ. Các nhà quản lý cứ theo đó mà nhận thưởng đều đặn mỗi năm. Nếu sau cùng đổ vỡ cũng xảy ra thì họ sẽ xin lỗi nhưng không bị buộc phải hoàn trả các khoản thưởng

Điều này cũng đang thực sự diễn ra tại nhiều tập đoàn. Đó là lý do vì sao nhiều CEO trở nên giàu có trong khi các cổ đông thì vẫn nghèo. Xã hội và các cổ đông cần phải có quyền lực pháp lý để thu hồi các khoản thưởng đối với những ai không đáp ứng được yêu cầu. Điều đó sẽ giúp thế giới này tốt đẹp hơn

Hơn nữa, chúng ta không nên trao các khoản tiền thưởng cho những người quản lý các tập đoàn lớn như nhà máy hạt nhân hay ngân hàng. Nhiều khả năng họ sẽ tham của rẻ tiền để tối đa hóa lợi nhuận. Xã hội chúng ta đang giao trọng trách quản trị rủi ro lớn nhất cho quân đội nhưng quân nhân thường không được nhận thưởng.:

Xin hãy nhớ rằng rủi ro lớn nhất nằm trong chính bản thân chúng ta: Chúng ta đánh giá cao khả năng của mình nhưng đánh giá thấp nguy cơ dẫn đến thất bại. Thần thoại Hy Lạp cũng có không ít minh họa cho cái giá phải trả của thói ngạo mạn: Achilles và Agamemnon chết vì tính ngạo mạn; Xerces thất bại khi tấn công Hy Lạp vì thói tự phụ; và nhiều thống soái xuyên suốt lịch sử đã phải bỏ mạng vì không nhận ra giới hạn của bản thân. Bất kỳ tập đoàn này không nhận ra "Gót chân Achilles" của mình sẽ thất bại
Thông tin cập nhật tại tìm hiểu forex- tinforex.blogspot.com

1 comments:

quang said...

cai nay chac phai hoc bạn nhi.ben bạn có đào tạo cái này ko có thì liên hệ mình nhé 0904713013

Post a Comment